Đảng viên, hai từ thiêng liêng mà trong mỗi người cán bộ, công chức, viên chức (gọi chung là cán bộ, đảng viên) phải cật lực phấn đấu để được kết nạp vào tổ chức uy tín nhất, quyền lực cao nhất của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đến nay, cả nước có khoảng 5,3 triệu đảng viên chiếm khoảng 5,4% dân số cả nước. Tuy chỉ có số lượng rất ít so với tổng dân số cả nước nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo trong toàn hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng phong cách của người đảng viên thời 4.0 cần nhìn nhận về thực trạng, nguyên nhân và giải pháp trong thời gian tới.
Học tập lý luận chính trị |
Tại Điều 1, Điều lệ Đảng nêu rõ:
Tuyệt đại đa số đảng viên sau khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng thì đều có động cơ phấn đấu tốt, vì mục tiêu phát triển của tổ chức, của cơ quan, đơn vị; đóng góp rất lớn trách nhiệm của bản thân trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh về mọi mặt. Nhiều tấm gương đảng viên trẻ đã cống hiến sức trẻ cho tổ chức, nhiều việc làm hay, sáng kiến, kinh nghiệm, đã giúp cơ quan, đơn vị và tổ chức cơ sở đảng lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả, đạt nhiều thành công trong các lĩnh vực công tác. Bản thân họ cũng gặt hái được những kết quả có giá trị thực tiễn được tập thể cấp ủy, tổ chức đảng tín nhiệm, tôn vinh bầu là chiến sĩ thi đua, được cấp trên khen thưởng.
Tuy nhiên, có một bộ phận đảng viên, sau một thời gian dài phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, nhất là sau khi trở thành đảng viên chính thức của Đảng cộng sản Việt Nam, thì không ít người đã có biểu hiện thỏa mãn, dừng lại, không còn tâm huyết với vai trò là một đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức gương mẫu, đi đầu trong các hoạt động, công tác như khi chưa vào Đảng, mà các biểu hiện đó thường xuất hiên như: Sa sút mục tiêu phấn đấu, học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức, năng lực, tác phong công tác. Biểu hiện sa sút lớn nhất đó là: ngại học tập lý luận chính trị, học tập nâng cao nghiệp vụ, kiến thức về khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin; tác phong công tác không gần gũi, sâu sát quần chúng; kế hoạch công tác thì chung chung; tính chiến đấu, tính giáo dục tự phê bình và phê bình còn nhiều hạn chế.
Biểu hiện thứ nhất đó là ngại học tập lý luận chính trị: Thường xuất phát từ việc khi được cấp trên triệu tập tham gia các học các lớp bồi dưỡng về lý luận chính trị, giáo dục các chuyên đề thì một số đảng viên thường báo cáo với người quản lý trực tiếp là bản thân mình bận việc này, việc kia, không tham gia học tập được, nên xin nghỉ học; có những đảng viên tham gia học tập nhưng lại không bảo đảm về thời gian. Khi học tập xong, triển khai viết bài thu hoạch thường là nộp bài chậm, có trường hợp làm bài hời hợt, không đến nơi đến chốn, thiếu trách nhiệm với tổ chức, gần như không nhận thức được nội dung người dạy giới thiệu.
Biểu hiện thứ hai đó là: Trong điều kiện hiện nay, công nghệ máy tính, công nghệ thông tin phát triển từ giờ, từng ngày nhưng đảng viên còn thờ ơ, cá biệt có một số đảng viên là cán bộ chủ trì không chịu học tập về sử dụng công nghệ thông tin phục vụ ngay công việc của mình. Khi có công việc cấp trên giao xuống họ tìm mọi cách để lấp liếm, nhờ người này, người kia làm giúp, không tự tay mình làm báo cáo bằng văn bản điện tử; không nhận thức được việc có trình độ về công nghệ thông tin là giúp ích cho chính họ. Trong khi đó, 100% đảng viên trong cơ quan, đơn vị đều sử dụng điện thoại Smartphone thông minh, nếu nói về kỹ năng sử dụng các ứng dụng để đọc tin bài trên mạng xã hội và chơi game thì khỏi phải bàn đến, gần như đảng viên nào cũng có thể sử dụng một cách thành thạo. Tuy nhiên, khi lãnh đạo cơ quan, đơn vị đề nghị họ tham gia phối hợp với tổ chức để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội, trên internet thì họ lại im thin thít. Các bài viết do lãnh đạo cơ quan, đơn vị viết, đăng và chia sẻ đến máy điện thoại của đảng viên, gần như họ đều không đọc, bỏ qua không có được một nút thích, chứ chưa nói là một nút chia sẻ. Thật đáng buồn.
Biểu hiện sa sút tiếp theo đó là: Khi tham gia sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt cấp chi bộ, nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, thực hiện phê bình và phê bình sát nhất, đa số đảng viên đều có nhận thức chung về xây dựng đảng, nhưng một bộ phận đảng viên thực hiện phê bình và phê bình ở chi bộ còn hạn chế, thậm chí còn yếu kém, rất ít khi tham gia phát biểu xây dựng nghị quyết. Có những đảng viên trong cả một năm (12 tháng) tham gia sinh hoạt chi bộ số lần phát biểu xây dựng nghị quyết của cấp ủy, chi bộ chỉ đếm trên đầu ngón tay. Cũng có đảng viên sau khi được bí thư cấp ủy gợi ý nhiều lần thi cũng miễn cưỡng tham gia góp ý vài ba điều gọi là cho có. Nội dung phát biểu thì chung chung, gần như nghĩ gì phát biểu đó, không có sự chuẩn bị, thấy có việc làm tốt cũng không đồng tình, thấy có khuyết điểm, hạn chế cũng không hề phê bình đồng chí mình làm sai, vi phạm, biểu hiện của trung bình chủ nghĩa. Nếu tình trạng trên kéo dài sẽ làm cho tổ chức đảng cấp cơ sở, nhất là cấp chi bộ thiếu đi công cụ sắc bén của mình đó là tính chiến đấu, tính giáo dục, làm cho đảng viên dần phai nhạt mục tiêu, lý tưởng của mình trước Đảng, trước tổ chức; không nhận thức được đâu là cái đúng, cái sai trong guồng máy vận động phát triển. Dễ dãi bỏ qua những khuyết điểm, hành vi vi phạm của đồng chí, đồng nghiệp trong cơ quan, đơn vị mình công tác.
Biểu hiện nữa đó là: Một số đảng viên khi tổ chức sinh hoạt Đảng thì không bày tỏ quan điểm của mình, nhưng khi rời khỏi cuộc họp thì lại phát biểu với một suy nghĩ luồng ý kiến khác không chính thống, gây dư luận không tốt trong nội bộ cơ quan, đơn vị, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng cấp mình.
Từ thực trạng trên, cho thấy có những nguyên nhân sau:
Bài và ảnh của Vi Đồng