Thứ Năm, 16 tháng 12, 2021

XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA AN TOÀN HƠN

  

LTG- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Vậy thế nào là môi trường có văn hóa? Để xây dựng môi trường văn hóa an toàn hơn cần phải làm gì? Giải pháp cần phải thực hiện ra sao? Giải quyết hài hòa các lợi ích vừa hợp tác, vừa đấu tranh để xây dựng một xã hội đồng thuận, chúng ta cần tập trung giải đáp những vấn đề sau đây:

Phải đánh giá đúng thực trạng văn hóa từng lĩnh vực trong giai đoạn hiện nay, lĩnh vực gì có yếu tố quyết định, chẳng hạn như: văn hóa trong Đảng, văn hóa công sở, văn hóa gia đình, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa xã hội và văn hóa giáo dục. Xác định khâu nào để đánh giá mạnh, yếu, rút ra bài học để có chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất. Với vai trò và góc nhìn của cá nhân xin đưa ra một số quan điểm riêng vấn đề sau đây để tham khảo.


Biểu diễn văn nghệ

- Theo quan điểm của cá nhân thì “Văn hóa trong Đảng” được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, quyết định chủ trương đường lối của Đảng phải trên cơ sở “lợi ích quốc gia, dân tộc”; xuất phát từ ý chí, quyền, lợi ích hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, hướng sâu vào mục tiêu “cái gì có lợi cho Nhân dân, cho Đất nước thì ra sức làm, cái gì có hại cho Nhân dân, cho Đất nước thì hết sức tránh”. Như vậy, để xây dựng được văn hóa trong Đảng trước hết ta phải xây dựng cho được “Đạo đức trong Đảng”, những người đảng viên của Đảng phải là con người có đạo đức (xét theo tiêu chuẩn đảng viên), nếu thiếu đạo đức thì họ sẽ hành động sai trái; nếu không có đạo đức sẽ đưa ra chủ trương, đường lối sai lầm, biện pháp thực hiện thiếu khả thi, làm chậm sự phát triển của đất nước có hại cho quốc gia, dân tộc mình.


Liên hoan văn nghệ quần chúng

- Văn hóa công sở được xây dựng trên cơ sở Luật công chức và viên chức nhà nước, trước hết văn hóa công sở chính là văn hóa công vụ, được hình thành thông qua ứng xử, giao tiếp, giải quyết công việc của cán bộ công vụ (công bộc của dân) của cơ quan Nhà nước từ cơ sở đến Trung ương với Nhân dân; quan tâm chăm lo đời sống, vật chất, tinh thần cho Nhân dân, vì Nhân dân phục vụ; làm việc tự giác, kỷ luật nghiêm minh; tạo thành guồng máy hoạt động trong một thể thống nhất. Để xây dựng được văn hóa công sở trước hết phải tập trung xây dựng cho được đạo đức công vụ, những cán bộ làm công vụ phải là những người có đạo đức tốt theo tiêu chuẩn chung, quang minh chính đại, hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân, tận tụy với công việc, có trách nhiệm với cộng đòng vì sự phát triển của địa phương, đất nước; không vụ lợi cá nhân hoặc ích kỷ, hẹp hòi. Thông qua người cán bộ, công chức ứng xử với người dân để lan tỏa những nét đẹp văn hóa công sở, làm cho nhân dân thêm tin tưởng vào cơ quan công vụ của chính quyền địa phương, đó chính là cơ sở để tập hợp quần chúng nhân dân tin theo Đảng, Chính phủ. Như vậy, mục tiêu xây dựng văn hóa công sở là phải làm cho người dân tin vào chính quyền, khi cần đến công việc gì là họ “muốn đến” cơ quan công vụ để giải quyết, không để họ “phải đến”, trên cơ sở hợp tác, nếu có vướng mắc thì phải kịp thời tháo gỡ, không để người dân phải chờ đợi hoặc tiêu cực.

- Văn hóa gia đình được xây dựng trên cơ sở quan hệ huyết thống, cái nôi nuôi dưỡng và hình thành nhân cách con người, có vai trò, vị trí hết sức quan trọng đối với văn hóa dân tộc. Phải xác định và giải quyết cho được ý nghĩa của cụm từ “gia đình là tế bào của xã hội” và “là hạt nhân của xã hội”, là một phần không thể thiếu được trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Vậy làm sao có thể xây dựng và phát triển văn hóa gia đình; văn hóa gia đình có tác động như thế nào đề văn hóa của Đảng, văn hóa công sở. Để chúng ta giải quyết được vấn đề trên cần phải xác định văn hóa gia đình là nền tảng, gốc rễ có tính chất quyết định đến các yếu tố văn hóa khác. Trước hết phải khẳng định rằng mỗi đảng viên, cán bộ đều có một gia đình, mỗi gia đình đều có một phương pháp giáo dục, dạy dỗ con cái theo phong cách riêng, tuy nhiên có một điểm chung đó là đều đi học và cho con đi học chung dưới một mái trường Việt Nam XHCN để có kiến thức, tri thức hình thành nhân cách và hòa nhập cộng đồng, xã hội. Mỗi khi hết giờ làm việc, hết giờ học tập họ lại cùng với con cái trở về dưới mái ấm gia đình (trong tiếng Anh người ta gọi là Home nghĩa là căn nhà đó có những trái tim), để cùng nhau sum họp. Tùy vào mỗi gia đình, cách giáo dục khác nhau sẽ tạo ra con người có bản lĩnh và văn hóa ứng xử khác nhau; ông, bà, cha, mẹ thường phải làm gương cho con, cháu từ việc ứng xử, lời ăn, tiếng nói, chăm lo xây dựng hạnh phúc gia đình cho đến việc ăn uống, nền nếp, tác phong sinh hoạt hằng ngày đó là cơ sở để hình thành văn hóa gia đình. Những yếu tố tác động chủ yếu đến văn hóa gia đình, chính là đạo đức; đảng viên là cán bộ, công chức, viên chức (công bộc) phải là những con người có đạo đức (cả gia đình, công vụ và xã hội). Đạo đức gia đình chủ yếu bị vi phạm chính là xuất phát từ những bậc làm cha, làm mẹ, làm ông, làm bà thiếu gương mẫu, làm trái quy tắc, chuẩn mực đạo đức công vụ, đạo đức xã hội, vi phạm pháp luật, là nguồn gốc làm băng hoại văn hóa gia đình (VD: ngược đãi cha mẹ, ly hôn, ngoại tình, tham ô, tham nhũng bị truy tố trước pháp luật….). Nếu thiếu gương mẫu, làm trái quy tắc, chuẩn mực đạo đức công vụ, đạo đức xã hội, vi phạm pháp luật đảng viên, cán bộ, công chức và viên chức đã vi phạm văn hóa của Đảng, văn hóa công sở, đồng thời trực tiếp làm băng hoại văn hóa gia đình. Chính vì vậy phải xây dựng văn hóa gia đình trở thành nền tảng, gốc rễ có tính chất quyết định đến các yếu tố văn hóa khác.

Ngoài việc ứng xử nội bộ gia đình ra còn phải có mối quan hệ láng giềng, thôn xóm…cấp ủy, chính quyền địa phương và tham gia hoạt động xã hội (đối ngoại), góp phần nâng cao và phát huy vai trò của Văn hóa gia đình. Vấn đền cần phải làm cho mọi người mọi tổ chức tin tưởng, trân trọng và phối hợp cùng gia đình mình, những lúc khó khăn họ đến giúp đỡ, nhưng lúc thành công và có niềm vui thì họ đến chia sẻ, chúc mừng; gần gũi, thân thiện, góp công, sức xây dựng quê hương, địa phương vững mạnh, giàu đẹp.


Liên hoan văn nghệ

- Đối với Văn hóa doanh nghiệp thì phải xây dựng trên cơ sở Luật lao động; đối với một đất nước, muốn phát triển được thì điều đầu tiên phải có doanh nghiệp tham gia đầu tư, tạo công ăn, việc làm và thu nhập cho người lao động; đồng thời bảo đảm người lao động hưởng lương xứng đáng với thành quả lao động của họ. Để phát triển doanh nghiệp, tạo công ăn việc làm tốt thì phải tuân thủ pháp luật, người lao động phải tuân thủ Luật lao động và nội quy của công ty, xí nghiệp; đồng thời chấp hành nghiêm kỷ luật lao động. Muốn tạo ra năng suất lao động thì mỗi doanh nghiệp phải tổ chức thi đua sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm, giúp cho doanh nghiệp đạt năng suất cao, khen thưởng động viên kịp thời và xử phạt nghiêm khắc, phân minh rạch ròi. Để nâng cao hiệu quả và năng suất lao động thì chủ doanh nghiệp phải quan tâm đến chế độ, chính sách và đời sống đối với người lao động, trọng tâm là nơi ăn, ở, điều kiện sinh hoạt để người lao động yên tâm, gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. Những sản phẩm người lao động làm ra cho doanh nghiệp phải là kết tinh trí tuệ, hàm lượng chất xám lớn, chiếm lĩnh được thị trường và niềm tin của khách hàng, đồng thời phải thân thiện với môi trường. Để văn hóa doanh nghiệp được phát huy hiệu quả đi đôi với năng suất lao động phải gắn với kỷ luật lao động, thưởng phạt nghiêm minh, tạo ra con người lao động có tác phong làm việc khoa học, có tính kế hoạch, tính kỷ luật cao, hay còn gọi là tác phong công nghiệp, tạo ra một thương hiệu doanh nghiệp mạnh, uy tín. Phải xây dựng văn hóa doanh nghiệp sao cho người lao động nghe đến tên của doanh nghiệp đó đầu tư xây dựng nhà máy, xí nghiệp ở đâu họ mong muốn được đến công ty, xí nghiệp của doanh nghiệp đó lao động, phục vụ hết sức mình vì sự phát triển của doanh nghiẹp đó, chứ không phải làm cho người lao động rời bỏ công ty, xí nghiệp đi nơi khác làm việc. Nếu thiếu đi những yếu tố trên chắc chắn không thể tạo ra văn hóa doanh nghiệp.

- Đối với văn hóa xã hội thực hiện bằng được các mục tiêu xây dựng nông thôn mới, thành phố văn minh, hiện đại mà Chính phủ đã ban hành; phát triển đồng bộ, thực hiện hiệu quả các tiêu chí xây dựng môi trường văn hóa trong Nhân dân. Trong đó, trọng tâm là giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, giữ gìn các giá trị lịch sử, truyền thống, cốt cách của Người Việt Nam; đồng thời với đó chúng ta cần chú trọng an sinh xã hội, khi người nước ngoài họ đến Việt Nam việc đầu tiên họ đánh giá xã hội tốt hay không chính là vấn đề an sinh xã hội.

Để làm được điều đó cần chú trọng vị trí vai trò của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương; tính tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong việc giữ gìn đạo đức, phong cách, lối sống, làm tròn chức trách nhiệm vụ được giao, đối với Nhân dân nhất là đồng bào, đồng chí và các dân tộc phải thực hiện bằng được lời hứa của mình, không được phép quên hoặc phản bội lại lời hứa đối với Nhân dân. Các mô hình khi phát động triển khai thực hiện phải có sơ kết, đánh giá hiệu quả đến đâu, những vấn đề gì đã làm được, chưa làm được, bổ sung chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện sao cho đạt mục đích yêu cầu đã đề ra. Những vấn đề phát triển mới, những vấn đề khó các cấp ủy, chính quyền cần phải được bàn bạc, thống nhất trong Nhân dân rồi mới tiến hành triển khai thực hiện, một khi đã được Nhân dân đồng thuận, ủng hộ chắc chắn sẽ đem lại thành công, môi trường văn hóa xã hội từng địa phương sẽ đem lại hiệu quả thiết thực.

Một khi chúng ta xây dựng được một xã hội đồng thuận đất nước ổn định, có nếp sống văn minh, hiện đại, có bản sắc văn hóa dân tộc đặc trưng, có sức hút và sức lan tỏa lớn sẽ làm cho cộng đồng thế giới nhìn vào chúng ta để học tập, mong ước được một xã hội bình yên, hòa bình, an vui và hạnh phúc. Và họ muốn đến để xem chúng ta làm như thế nào để giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc; muốn sống để cảm nhận và được an hưởng những thành tựu đó, đồng thời thu hút được nhiều người, ở nhiều quốc gia đến với chúng ta chính bằng bản sắc văn hóa Việt. Vậy nên mỗi người trong chúng ta, mỗi gia đình, mỗi tổ chức là một bộ phận cấu thành của xã hội thì không thể xa rời tôn chỉ mục đích xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, hùng cường, có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trách nhiệm của chúng ta là phải xây dựng môi trường văn hóa thân thiện, gắn kết, an sinh xã hội tốt, là một quốc gia đáng sống; làm cho người nước ngoài họ muốn đến, muốn sống, muốn đầu tư và thậm chí muốn định cư lâu dài, nhất là những người giàu, doanh nghiệp giàu tiềm năng đầu tư vào, tạo công ăn việc làm cho đất nước.

- Đối với văn hóa giáo dục, chúng ta đã có Luật giáo dục-đào tạo, mặc dù dưới góc nhìn của cá nhân thì tiêu chí đặt ra đối với giáo dục-đào tạo là rất cao, tuy nhiên yêu cầu đạt được đối với giáo dục thì phải xác định lại cho phù hợp với quy luật phát triển của xã hội và công nghệ số hiện nay. Mà theo dự báo tương lai với phát triển công nghệ 4.0, chuyển đổi số như ngày nay, thì khái niệm về người thầy sẽ có nhưng biến đổi không ngừng; có thể người thầy linh hoạt hơn nhiều so với trước đây, ai cũng có thể đứng trên vai người thầy không nhất thiết người đó có trình độ cao hay thấp. Vấn đề cốt lõi đặt ra đối với yêu cầu giáo dục và văn hóa giáo dục như thế nào chúng ta cần phải định hình một cách nghiêm túc để văn hóa giáo dục đi liền với văn hóa dân tộc (thường gọi là cơ sở văn hóa). Trong thời gian gần đây chúng ta thấy vấn đề bàn luận rất nhiều về khẩu hiệu trong mái trường XHCN đó là “Tiên học lễ, hậu học văn”, đây là lời dạy của cổ nhân đối với giáo dục trong mọi thời đại luôn đúng. Đây chúng ta có thể khẳng định một điều chắc chắn ở bất kỳ một quốc gia phương Đông nào muốn học tập nghiêm túc được trước hết phải được học về lễ phép, tôn sư trọng đạo (Nho giáo, đạo Khổng) trước khi học chữ. Nói một cách khoa học thì kỷ luật phải đi trước lao động, nghĩa là đối với một anh công nhân trước khi anh đi lao động anh phải được học về cách bảo đảm an toàn lao động, cho công việc anh sắp làm không để xảy ra mất an toàn (gọi là văn hóa lao động). Đối với học sinh để hình thành văn hóa giáo dục, phải có người giáo dục phải tận tụy, gương mẫu, có tri thức, truyền đạt, dạy dỗ học trò đến nơi đến chốn; học trò thì phải học từ cái nhỏ nhất đến kiến thức người dạy truyền đạt toàn diện nhất. Trong đó văn hóa xưng hô, chào hỏi, lễ phép với thầy cô là tối thượng; được phép tranh luận để đi đến cái chung nhất. Trong tương lai không xa việc thảo luận giữa thầy cô và học sinh sẽ chuyển dần sang tranh luận, phản biện để tìm ra cái mới, cái chân lý, giải thích đúng cho một sự vật hiện tượng, không còn rập khuôn máy móc theo một khuôn khổ nhất định nào đó và lúc ấy, mỗi người thầy cô sẽ cần phải trang bị cho mình nhiều kiến thức hơn, để giáo dục học sinh đạt tới kiến thức toàn diện hơn. Những người thầy, cô giáo phải là người đáp ứng đủ các tiêu chí về phẩm chất chính trị, năng lực công tác, đạo đức nghề nghiệp thực hiện sự nghiệp giáo dục, thực sự là tấm gương để học sinh noi theo, vừa là động lực, vừa là điều kiện hướng nghiệp để lựa chọn được nhiều người tài giỏi tiếp bước phát triển ngành giáo dục vững mạnh hơn. Nếu mỗi người thầy cô không đáp ứng đủ các tiêu chí, suy thoái, biến chất, có hành vi phi giáo dục sẽ làm hỏng cả một thế hệ, ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, đất nước.

Như chúng ta biết nếu giáo dục được một công dân tốt, có ý chí vươn lên, tích cực lao động tạo ra của cải vật chất cho xã hội là chúng ta đã thành công. Nếu chúng ta có thêm những người có yếu tố tiêu cực thì thêm nhân tố mất ổn định làm tổn hại đến kinh tế, an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, trách nhiệm của giáo dục là sự kết hợp các yếu tố gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó gia đình là trụ cột, nhà trường là quan trọng, xã hội là nhân tố không thể thiếu được, những nhân tố trên tuy có tính tương đối nhưng nó là một thể thống nhất. Do đó, để xây dựng văn hóa trong giáo dục phải có sự đồng nhất của các yếu tố nêu trên để hoàn thiện nhân cách của con người.

Khẳng định lại “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội”, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, sẽ tạo ra nhân tố tích cực, đóng góp quan trọng để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa đặc trưng Việt Nam, bảo vệ giá trị lịch sử truyền thống của Đảng, của đất nước, của dân tộc trong thời kỳ mới.

Bài và ảnh Vi Đồng


Thứ Ba, 14 tháng 12, 2021

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM “LẤY DÂN LÀM GỐC” CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG XHCN HIỆN NAY

  

Quan điểm của Đảng ta chỉ rõ “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.

Đường nông thôn từ dự án 135

Cơ sở nào để Đảng ta có quan điểm “lấy dân làm gốc

- Xuất phát từ vai trò lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin đó là “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, như vậy chúng ta xác định quần chúng ở đây là Nhân dân, nói gọn là “Dân”. Lý luận Mác-Lênin cũng chỉ rõ Đảng Cộng sản là tổ chức tập hợp những người tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, chỉ là người xác định chủ trương, đường lối, còn Nhân dân mới là người thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng muốn tồn tại, phát triển và lãnh đạo được cách mạng trước hết cần phải xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn vì lợi ích của Nhân dân, khi đó Nhân dân sẽ tin Đảng, theo Đảng và bảo vệ Đảng. Nhân dân chính là lực lượng vật chất vô cùng to lớn, sức mạnh không có gì cản nổi, đó chính là sức mạnh tổng hợp. Như vậy, Đảng không có quần chúng nhân dân thì không thể lãnh đạo cách mạng thành công.

- Xuất phát từ tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minhlà tư tưởng vì Nhân dân, vì con người. Theo Hồ Chí Minh, ở nước ta chủ nghĩa yêu nước có trước chủ nghĩa cộng sản, phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân, lòng dân thì có trước ý Đảng. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã mang trong mình yếu tố yêu nước, yếu tố dân tộc, xuất phát từ lòng yêu nước trong Nhân dân. Cho nên, khi có Đảng Nhân dân luôn tin theo, trung thành tuyệt đối và không có gì lay chuyển nổi. Theo Người, dựa vào nhân dân, đặt niềm tin vào lực lượng, trí tuệ của Nhân dân, đồng thời chăm lo cho đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân là cơ sở tạo nên sức mạnh đoàn kết và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhân dân. Kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc, tinh hoa của nhân loại và nghiên cứu sâu sắc về Chủ nghĩa Mác-Lênin, chính Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vai trò, vị trí, sức mạnh to lớn của Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Người đã dày công rèn luyện Đảng ta, các thế hệ cán bộ, đảng viên qua từng gia cách mạng, trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, xây dựng nền hòa bình lâu dài trong giai đoạn cách mạng mới.

- Xuất phát từ thực tiễn hoạt động cách mạng của Đảng đã biết dựa vào sức mạnh của nhân dân, biết tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp, lãnh đạo nhân dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, giành độc lập cho dân tộc ngày 02 tháng 9 năm 1945; lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến trường kỳ giữ vững nền độc lập, giành lại hòa bình năm 1954; lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đấu tranh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi ngày 30 tháng 4 năm 1975. Mặc dù đất nước gặp muôn vàn khó khăn, thử thách, để giữ vững hòa bình và phát triển đất nước, Đảng ta thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tập hợp mọi lực lượng, sức dân, trí tuệ trong dân để cùng kiến thiết xây dựng lại đất nước sau chiến tranh.

- Xuất phát từ thực trạng hiện nay, như Đảng ta đã đánh giá… “biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ là rất nghiêm trọng; tình trạng tham nhũng, lãng phí chưa được đầy lùi”, đã làm xói mòn lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; “một số khuyết điểm, hạn chế kéo dài chậm được khắc phục” đã làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; “một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của Nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải quyết; quyền làm chủ của Nhân dân bị vi phạm làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, để củng cố vững chắc lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, với chế độ XHCN, cần phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng mối đoàn kết gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, để xây dựng đất nước phát triển, phồn vinh và hạnh phúc; đồng thời phái có ý chí vươn lên khát vọng xây dựng đất nước vững mạnh, hùng cường, sánh vai cùng bạn bè quốc tế.

Ngày nay, trước sự biến động không ngừng của thế giới, quy luật vận động của vật chất là tất yếu. Tuy nhiên, để đất nước phát triển nhanh, bền vững, theo kịp các nước phát triển, Nghị quyết Đại hội XIII đã xác định mục tiêu “đến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.

Để đạt được mục tiêu đó, trước hết, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đều phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, tạo thuận lợi để mọi người dân tham gia phát triển kinh tế, làm giàu, đóng góp hiệu quả cho kinh tế đất nước. Thực hiện hiệu quả bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, từ Trung ương đến cơ sở xây dựng hệ thống hành chính công phục vụ Nhân dân; tập trung giải quyết, tháo gỡ vướng mắc, bức xúc, nguyện vọng mà Nhân dân quan tâm, nhất là vấn đề an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, lợi ích, việc làm, môi trường; xử lý nghiêm tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Thực hiện tốt những nội dung trên, chắc chắn chúng ta sẽ tập hợp, đoàn kết được Nhân dân tin Đảng, xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, là động lực quan trọng để Đảng ta đề ra đường lối đúng đắn xây dựng đất nước vững mạnh, phồn vinh, hạnh phúc và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn.

Bài và ảnh: Vi Đồng

 

Thứ Năm, 2 tháng 12, 2021

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN BẢO ĐẢM LỢI ÍCH QUỐC GIA CỦA VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỂ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ PHÁP LUẬT

 Có thể khẳng định: Lợi ích Quốc gia - dân tộc là một nguyên tắc cơ bản cốt lõi trong quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam, trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Vì một Việt Nam phát triển, độc lập, tự chủ, giàu mạnh, hùng cường, tin cậy và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.


Cột cờ trên Vịnh Hạ Long

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định Hội nhập quốc tế phải bải đảm cao nhất lợi ích quốc gia, trong đó đề ra chủ trương về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo. Với nhận thức mới, tiềm lực, vị thế, uy tín của quốc gia và tầm nhìn chiến lược phát triển đất nước đến 2045, chủ trương hội nhập quốc tế và phương châm, giải pháp bảo đảm lợi ích quốc gia trong tình hình mới được Đảng ta xác định là hết sức quan trọng, nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế và pháp luật, đáp ứng yêu cầu khách quan của sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Để bảo đảm lợi ích quốc gia của Việt Nam trong Hội nhập kinh tế quốc tế cần phải thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường sự hợp tác trên các lĩnh vực, cùng hướng tới mục tiêu chung, tham gia giải quyết những vấn đề mang tính chất toàn cầu. Đồng thời phải thực hiện đầy đủ các cam kết cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta đã ký kết hợp tác và tham giaxác định phương hướng, mục tiêu, xây dựng kế hoạch, lộ trình để các cấp, các ngành, các địa phương và doanh nghiệp sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả tính cạnh tranh, bảo đảm hội nhập hiệu quả thiết thực. Những lĩnh vực kinh tế, ngành quan trọng trong quá trình hội nhập cần khai thác triệt để thế mạnh, có thể đi tắt, đón đầu về khoa học, kỹ thuật tiên tiến để nhằm rút ngắn khoảng cách với các nước về phát triển kinh tế và đuổi kịp các nước phát triển. Khi thực hiện chiến lược hội nhập, cần đặc biệt quan tâm đảm bảo sự phát triển  đồng bộ của các ngành dịch vụ là những lĩnh vực quan trọng mà nước ta còn yếu kém.

Hai là, tích cực, chủ động, đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới về công nghệ, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trình độ quản lý của bộ máy Nhà nước, phát huy lợi thế về nguồn nhân lực, nguyên liệu tạo ra sản phẩm có chất lượng, giá thành hợp lý, đồng thời tạo thuận lợi cho phát triển ngành dịch vụ, logistic, đuổi kịp sự thay đổi nhanh chóng của thị trường thế giới. Trong đó, tập trung nguồn lực tạo ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có tính cạnh tranh cao, không những là sản phẩm và dịch vụ chủ đạo chiếm lĩnh thị phần trong nước, mà còn là ngành hàng mũi nhọn dành cho xuất khẩu chiếm lĩnh các thị trường tiềm năng trên thế giới.

Ba là, đẩy mạnh công tác đạo tạo nguồn nhân lực bảo đảm thị trường lao động trong nước, đồng thời đủ năng lực tham gia hợp tác lao động trong môi trường khu vực và quốc tế. Trong đó, tập trung đào tạo nguồn nhân lực quản lý hành chính công, quản lý công vụ, nhà giáo dục đủ trình độ năng lực, đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có chuẩn đầu ra: phẩm chất chính trị kiên định vững vàng, yêu nước, phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đạo đức trong sáng, nghiệp vụ tinh thông, có trình độ ngoại ngữ đáp ứng lao động, làm việc trong môi trường quốc tế; có tác phong làm việc khoa học, tính kỷ luật cao, tuân thủ pháp luật Việt Nam và am hiểu về luật pháp quốc tế.

Năm là, đổi mới cơ chế quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước phát triển; chủ động, tích cực nghiên cứu, nắm vững thông tin thị trường, khoa học, công nghệ, vốn và chính sách. Đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân, nâng cao năng quản lý của kinh tế nhà nước và kinh tế Nhà nước giữ vai trò định hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng trước pháp luật. Nâng cao hiệu quả kinh doanh, sản xuất hàng hóa, làm chủ công nghệ của các doanh nghiệp trong nước tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế và nhân dân vươn lên làm giàu trên chính quê hương, đất nước.

Sáu là, nắm vững tiềm năng lợi thế của đất nước, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại kinh tế, với đối ngoại chính trị, đối ngoại nhân dân; giữ vững nguyên tắc hợp tác quốc tế về chính trị, kinh tế, đối ngoại với đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường và đối tác; đồng thời tham gia rộng rãi các tổ chức quốc tế để thúc đẩy đối ngoại về kinh tế. Quá trình hội nhập phả trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, công bằng, hài hòa giữa lợi ích quốc gia với lợi ích doanh nghiệp và ngược lại. Bảo đảm khi thuận lợi thì Nhà nước hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp, thành phần kinh tế phát triển, đồng thời các doanh nghiệp, thành phần kinh tế cùng gánh vác, chia sẻ khó khăn khi đất nước gặp rủi ro, thiên tai, dịch bệnh….

Bảy là, gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng ngay từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng như trong quá trình thực hiện, nhằm làm cho hội nhập không ảnh hưởng tiêu cực tới nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và an toàn xã hội; mặt khác, các cơ quan quốc phòng và an ninh cần có kế hoạch chủ động hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi cho quá trình hội nhập.

Tám là, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và hoàn thiện hệ thống Luật pháp của Việt Nam bảo đảm tính đồng bộ cao, là cơ sở pháp lý để quản lý kinh tế - xã hội; tạo hành lang thuận lợi để các thành phần kinh tế trong nước phát triển, đồng thời có cơ chế hợp tác để doanh nghiệp Việt Nam vươn ra đầu tư ra nước ngoài. Tích cực tham gia hội nhập sâu rộng vào các tổ chức kinh tế mà Việt Nam tham gia như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); TPP, EVFTA, AFTA, APEC, ASEAN .

Chín là, thường xuyên kiện toàn ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực, uy tín và thẩm quyền giúp Chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh tế quốc tế.

Việt Nam là một quốc gia gần 100 triệu dân, tỷ lệ dân số trẻ cao, là một thị trường tiềm năng, cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển kinh tế. Với lợi thế và tiềm năng lớn đang tạo thuận lợi, cơ hội rất lớn cho đất nước hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, tuy nhiên song thách thức cũng không hề nhỏ. Đường lối đối ngoại đúng đắn “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, song phải “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi” trong tình hình mới, để sức mạnh Việt Nam sẽ tiếp tục được tỏa sáng trên trường quốc tế.

Đây sẽ là cơ sở vững chắc cho phát huy sức sáng tạo, ý chí và khát vọng phát triển, sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa kết hợp với sức mạnh thời đại để đẩy mạnh phát triển đất nước nhanh và bền vững, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần to lớn thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Bài và ảnh

Vi Đồng

NƯỚC NGA HÙNG CƯỜNG SẼ CÓ LỢI CHO HÒA BÌNH THẾ GIỚI

  Sau Cách mạng Tháng Mười, nước Nga đã phát triển một cách ngoạn mục, trở thành một quốc gia hùng mạnh, là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng XHCN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực lượng tiến bộ trên thế giới đấu tranh chống áp bức, bóc lột, nhất là phong trào cách mạng ở các quốc gia thuộc địa. 

Thành phố Matxcơva của Nga

Chiến tranh Thế giới thứ II nổ ra, nước Nga lại phải đương đầu với một thử thách vô cùng khắc nghiệt, nhưng cuối cùng Hồng quân Liên Xô và các nước đồng minh đã đánh bại chủ nghĩa phát xít, chấm dứt Chiến tranh Thế giới thứ II, cứu nhân loại khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít, bảo vệ nền hòa bình thế giới. Sau chiến thắng phát xít, một loạt các nước XHCN ở Đông Âu ra đời tạo thành một Khối hiệp ước vững chắc để bảo vệ hòa bình thế giới, là chỗ dựa tinh thần cho cách mạng XHCN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nhiều quốc gia từ thân phận nô lệ, thuộc địa đã đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong đó có Việt Nam giành được độc lập bằng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, từ tay phát xít Nhật.


Xe tăng T34 của Nga

Liên Xô đã khôi phục đất nước sau chiến tranh, phát triển vượt bậc nhiều thành tựu về chính trị, kinh tế, xã hội, nhanh chóng trở thành trở thanh cường quốc, ngang tầm với Mỹ; đồng thời là thành trì, chỗ dựa vững chắc cho lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, đấu tranh chống áp bức, cường quyền trên phạm vi toàn thế giới. Liên Xô cũng đã giúp đỡ nhiều quốc gia, đóng vai trò kiến tạo hòa bình, để các quốc gia thuộc địa có cơ hội đứng lên chống lại áp bức, bóc lột, giải phóng đất nước, giải phóng giai cấp giành lại độc lập. Liên Xô cũng đã đứng ra tập hợp lực lượng, hỗ trợ các nước, tổ chức giúp đào tạo nhân lực, nhất là đội ngũ cán bộ cho các quốc gia có tư tưởng tiến bộ, gây dựng phong trào; hỗ trợ vũ khí, trang bị cho các nước anh em trong phe XHCN nhằm chống lại áp bức, cường quyền, chống xâm lược.

Liên Xô lớn mạnh, hùng cường, có đầy đủ tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự trên phạm vi toàn thế giới, vị thế cường quốc quân sự đã tạo thêm niềm tin đồng thời hành động có trách nhiệm với các nước XHCN anh em. Đặc biệt là quan hệ hợp tác hữu nghị với Việt Nam, đã giúp nhân dân Việt Nam giành lại hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời, giúp nhân dân Việt Nam khôi phục lại đất nước sau chiến tranh, phát triển đất nước, đó là những đặc ân mà Liên Xô đã giành cho Việt Nam. Nhiều công trình hữu nghị đã được xây dựng trên dải đất nước hình chữ S của chúng ta, mang đậm nét tình đoàn kết anh em XHCN.


Vũ khí trang bị của Nga

Tuy nhiên, trong thập niên 90 của thế kỷ XX, có lẽ bất kể người Việt Nam nào cũng đều cảm nhận được một nỗi đau lớn chưa từng có, đó là sự kiện chấn động thế giới Liên bang Xô viết XHCN Liên Xô sụp đổ, Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã. Trên đài phát thanh khi ấy, chuyên mục thời sự tôi được nghe “có những đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô, ngồi ngay ở Quảng trưởng Đỏ, rút tấm thẻ Đảng viên trong túi ra, họ ngang nhiên châm lửa đốt bỏ”. Khi ấy, tôi là chàng trai vừa tốt nghiệp Trung học phổ thông, chưa hiểu nhiều gì về chính trị (có thể ai đó đọc được dòng cảm nhận này của tôi thì sẽ biết được điều đó), càng về sau, khi nghe những người lão thành cách mạng ở địa phương kể về những câu chuyện thời sự, tôi càng hiểu ra là “Không có nỗi đau nào bằng sự tan rã của một Đảng Cộng sản cầm quyền ở một quốc gia rộng lớn nhất thế giới đó lại là Liên Bang Cộng hòa XHCN Xô Viết Liên Xô”, các nước yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới mất đi một chỗ dựa, mất đi một thành trì của Hệ thống XHCN; cách mạng XHCN, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào.

Nước Nga kế thừa những di sản còn lại của Liên Xô tan rã, đứng mũi chịu sào, giải quyết các vấn đề quốc tế, trong thế yếu ớt, nội bộ, chính trị, xã hội chia rẽ, cuộc sống của nhân dân Nga lao dốc không phanh, khó khăn chồng chất, đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức, nước Nga tiếng nói không còn được coi trọng trong cộng đồng quốc tế, đứng ở vị trí thứ yếu. Đứng trước những khó khăn thách thức toàn cầu, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là phương Tây và Mỹ đã lũng đoạn thế giới, gây chiến khắp nơi.

Sau hơn 20 năm, Tổng thống V.Putin lên nắm quyền lãnh đạo đất nước, đoàn kết dân tộc, khôi phục lại tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao; đời sống nhân dân Nga từng bước được cải thiện, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, ổn định về chính trị, phát triển nhanh chóng về tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, lãnh thổ. Đến nay, nước Nga trở lại vị thế là một cường quốc cả về chính trị, quân sự, an ninh và kinh tế, đóng góp ngày càng thực chất vào công cuộc kiến tạo hòa bình thế giới trong thời kỳ mới. Chính sự phát triển của nước Nga hùng cường, mạnh mẽ, hành động có trách nhiệm trong cộng đồng thế giới, lấy lại vị thế là một cường quốc như Liên Xô trước đây, đã đóng góp quan trọng, là chỗ dựa vững chắc cho các nước yêu chuộng hòa bình, lực lượng tiến bộ trên thế giới; đồng thời ngăn chặn hiệu quả nguy cơ chiến chiến tranh, bảo vệ hòa bình thế giới.

Vũ khí trang bị Nga duyệt binh

Có thể khẳng định nước Nga ngày nay đối với thế giới có vai trò hết sức quan trọng trong giải quyết các vấn đề quốc tế như: an ninh phi truyền thống, kinh tế, dịch bệnh, năng lượng, xung đột vũ trang, phi hạt nhân hóa, khủng hoảng chính trị. Tuy nhiên, khó khăn chính nổi lên là: Mỹ và các nước phương Tây tiếp tục thực hiện chính sách cấm vận, bao vây kinh tế, cô lập về chính trị, ngoại giao, răn đe quân sự… trong thế giới đa cực, biến động không ngừng. Thiết nghĩ, trong những năm tới Nga sẽ vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục giữ vai trò đối tác chiến lược quan trọng trong Khu vực và toàn cầu, giữ vững vị thế cường quốc. Đóng góp quan trọng vào việc ngăn chặn hiệu quả nguy cơ chiến chiến tranh, bảo vệ và duy trì hòa bình thế giới./.

Cảm nhận tháng 12/2021

Bài và Ảnh: Vi Đồng


HIỆN TƯỢNG THẦN TƯỢNG SAI CHỖ VÀ NGƯỠNG CỬA CHO MỘT XÃ HỘI ỔN ĐỊNH

Ảnh minh hoạ Trong thời đại mạng xã hội và truyền thông nhanh như hiện nay, một số hiện tượng xã hội đang nổi lên với mức độ ảnh hưởng ngày ...